Archive for the ‘Gia sư’ Category

Đề thi phần lớn không yêu cầu phải học thuộc lòng các định nghĩa, các khái niệm… mà cần phải hiểu để vận dụng và suy luận.

Các câu hỏi về viết phương trình phản ứng, hoàn thành các sơ đồ phản ứng, về điều chế các chất chiếm tỉ lệ cao trong số các câu hỏi lý thuyết. Các câu hỏi về phần nhận biết các chất cũng tương đối nhiều, câu hỏi về tách chất thường ít hơn. Các câu hỏi có tính thực tế, ứng dụng cũng cần được chú ý đến.

Bên cạnh các kiến thức thuộc chương trình lớp 12 (là chủ yếu) có cả các kiến thức phần Hoá Đại cương và Hoá Vô cơ, Hữu cơ lớp 10, 11 như: Cấu tạo nguyên tử, pH của dung dịch, cân bằng Hoá học, điều chế các chất Vô cơ quan trọng, đại cương về Hoá Hữu cơ, hoá tính và điều chế các Hidrôcacbon…

Các bài tập phần lớn không lắt léo, phức tạp và không “nặng” như nhiều đề thi những năm trước đây. Các bài tập Vô cơ chủ yếu thuộc chương trình lớp 12, liên quan đến phản ứng của các kim loại và hợp chất của kim loại. Các bài tập Hữu cơ vẫn quen thuộc là các bài toán xác định công thức và các hợp chất hữu cơ…

Từ các nhận xét trên, có thể rút ra điều gì?

– Điều đầu tiên là các em phải chú trọng học tốt phần lý thuyết. Không chỉ vì phần lý thuyết có số điểm cao hơn phần bài tập mà ngay trong phần bài tập, nếu không nắm tốt các kiến thức lý thuyết, không viết đúng các phương trình phản ứng thì cũng không giải bài tập được.

Để nắm vững các kiến thức cơ bản, (…) các em không chỉ học phần lý thuyết trong SGK, mà còn phải tìm hiểu các câu hỏi, bài tập ở cuối mỗi bài và ở sách bài tập.

Ngoài ra, còn nên đọc thêm một số tài liệu tham khảo như các sách giới thiệu các đề thi TSĐH và CĐ trong những năm gần đây. Qua đó, các em có thể tăng cường kiến thức và quan trọng là để biết các dạng câu hỏi, bài tập thường gặp khi đi thi cũng như cách trả lời, cách trình bày các vấn đề như thế nào cho hợp lý.

– Khi học theo SGK, một số em thấy khó khăn, cứ thấy “học trước quên sau” hoặc học xong một vài lượt thì cảm thấy như “cái gì cũng biết” nhưng khi hỏi cụ thể vào một phần nào đó thì quên hẳn hoặc trả lời rất bập bõm. Để tránh tình trạng này, các em nên tự tổng kết các bài theo một dàn ý thật ngắn gọn để dễ nhớ, rồi dựa vafo dàn ý đó mà phát triển thành một câu trả lời đầy đủ.

– Các đề thi hiện nay không khó như trước đây, số học sinh làm được bài nhiều hơn. Để vượt lên, vấn đề trình bày bài thi cho tốt càng trở nên quan trọng. Muốn vậy, các em cần đọc kỹ đề bài, trình bày ngắn gọn và đầy đủ các yêu cầu của câu hỏi, tránh bỏ sót ý này, ý khác có thể bị mất điểm một cách đáng tiếc.

Có gặp các “câu tủ các em cũng đừng ham viết dài, lan man (có khi lạc đề) mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến các câu khác. Đề hỏi gì làm nấy, viết đủ ý, rõ ràng mạch lạc là được.

– Chữ viết cũng không cần cầu kỳ, nắn nót, chỉ cần viết sạch, dễ đọc. Các phương trình phản ứng các em chú ý cân bằng và viết đủ các điểu kiện phản ứng (nếu câu hỏi yêu cầu). Phần này nếu không để ý cũng rất dễ bị mất điểm.

Với bài toán Vô cơ và Hữu cơ, các em nhất thiết phải đọc kỹ đề bài 2, 3 lần để hiểu đúng nội dung yêu cầu của bài ra, viết đúng công thức của các chất và các phương trình phản ứng. Cần phải chú ý biện luận các chất phản ứng cho dư hay thiếu, phản ứng hoàn toàn hay chưa hoàn toàn…để biết được các sản phẩm của phản ứng là gì… Đây là bước quan trọng nhất của bài toán. Sau đó mới là bước lập phương trình và tính toán kết quả.

Trong trường hợp vì lý do nào đó, các em không lập đủ phương trình để có thể giải bài toán đi đến đáp số cuối cùng thì tuyệt đối không được “bỏ trắng” cả bài, mà phải viết tất cả những phần mình đã làm được ra giấy thi vì nguyên tắc chấm thi là làm đúng phần nào đều cho điểm phần đó.

Nếu làm bài toán mất nhiều thời gian chưa giải được thì không nên làm cố, dễ bị “sa lầy” mà chuyển sang câu khác, sau đó quay lại có khi lại phát hiện này ra chỗ mình đã sai lầm và giải được bài toán.

– Một kinh nghiệm chung khi làm các đề là các em nên chọn những bài dễ mà mình có thể làm tốt để làm trước. Điều này tạo cho các em tâm lý tự tin, thoải mái giúp các em làm tốt các câu tiếp theo.

Nhìn chung, trong ba môn thi, môn Hoá thường được xem là môn “gỡ điểm”, mong các em cố gắng phấn đấu để đạt điểm cao môn Hoá học và thành công trong kỳ thi năm nay.

Theo Sinh Viên Việt Nam

Môn Hóa – Khó mà dễ!

Posted: Tháng Bảy 4, 2010 in Gia sư

Với hình thức thi trắc nghiệm, môn Hoá vốn dễ mất điểm nay lại càng dễ mất điểm hơn. Ở môn Hoá, đòi hỏi thí sinh phải tỉ mẩn và cẩn thận trong cả cách học ôn và cách làm bài.

Theo thầy Phạm Xuân Nhĩ, Phó phòng đào tạo hệ ĐH từ xa trường ĐH Kinh tế quốc dân (cơ sở Nam Định) thì môn Hoá tuy “khó nhằn” là thế nhưng cũng lại là môn dễ đạt điểm cao nhất trong các môn thi khối A, B.

Những phong cách không thể “dung hoà” trong môn Hoá

Tài tử: Chương trình Hóa học là chương trình đồng tâm, kiến thức nọ lồng trong kiến thức kia. Các kiến thức đan kết, móc nối với nhau. Nếu học kiểu tài tử, dù thí sinh có tư chất thông minh, có hiểu bài nhưng nếu không có một nền tảng kiến thức cơ bản và vững chãi thì khi làm bài thí sinh sẽ rất dễ bị nhầm và khó đạt được điểm cao. Nhất là đối với dạng bài trắc nghiệm, luôn có vô số những câu hỏi cài bẫy và đối với kiểu học tài tử, môn Hoá càng khiến cho thêm nhiều thí sinh bị “sập bẫy”.

Thụ động: Học Hóa không cần học thuộc lòng, càng không “ưa” những thí sinh chỉ biết cắm cúi nghe giảng rồi cắm cúi chép như những cái máy. Trong kỳ thi ĐH, CĐ nhiều năm qua hoàn toàn không có phần nào dành cho việc học thuộc.

Học môn Hoá phải hiểu mới làm được bài tập. Muốn tránh được cách học thụ động thì khi học Hoá, thí sinh phải luôn đi cùng việc giải bài tập. Ở môn Hoá, giải bài tập sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc học lý thuyết và ngược lại.

So với các môn khoa học tự nhiên khác thì quan hệ giữa lý thuyết và bài tập trong môn Hoá đặc biệt khăng khít và tác động rất tích cực cho nhau. Để dễ nhớ kiến thức môn Hóa, học sinh học lý thuyết đến đâu tự viết luôn các phản ứng hóa học ra giấy đến đấy.

Lắt léo: Môn Hoá tối kỵ với phong cách học lắt léo và suy diễn cho dù điều kiện không thể thiếu để đạt được điểm cao môn Hoá là thí sinh phải có năng lực tư duy tốt trên một nền tảng kiến thức phải vững vàng, không hiểu được bản chất thì không làm được bài.

Tuy nhiên, môn Hoá cũng khiến thí sinh dễ rơi vào suy diễn nếu học theo kiểu học xong một vài lượt thì cảm thấy như “cái gì cũng biết” nhưng khi hỏi cụ thể vào một phần nào đó thì quên hẳn hoặc trả lời rất bập bõm nên trả lời… bừa.

Theo thầy Nguyễn Dũng, giảng viên khoa Hoá trường ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQG Hà Nội), khi chấm bài thi môn Hoá của thí sinh, nhiều lần thầy đã phải rất ngạc nhiên khi bắt gặp những phương trình đầy chất suy diễn, bộc lộ những lỗ hổng rất cơ bản trong kiến thức của thí sinh.

Thầy Dũng cho biết, các bài tập của môn Hoá phần lớn không lắt léo, phức tạp và không quá nặng. Các bài tập Vô cơ chủ yếu thuộc chương trình lớp 12, liên quan đến phản ứng của các kim loại và hợp chất của kim loại. Các bài tập Hữu cơ vẫn quen thuộc là các bài toán xác định công thức và các hợp chất hữu cơ…

Những nghịch lý tồn tại trong môn Hoá

Học lý thuyết rất khó… vào: Mặc dù trong đề thi tuyển sinh ĐH, CĐ không có “đất” dành cho phần học thuộc lòng đối với môn Hoá nhưng trong cách học ôn môn Hoá, phần lý thuyết chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Nếu không nắm tốt các kiến thức lý thuyết, không viết đúng các phương trình phản ứng thì cũng không thể tìm được phương án nào đúng trong đề thi trắc nghiệm môn Hoá năm nay.

Đòi hỏi rất cao về lý thuyết nhưng môn Hoá lại “từ chối” những thí sinh nào chỉ biết học thuộc lòng. Vì vậy, học lý thuyết thế nào cho hiệu quả đối với môn Hoá là một thách thức rất lớn cho thí sinh.

Nếu chỉ chăm chú nghe thầy giảng để chép lại bài rồi học thuộc bài cũng không được vì sẽ không có gì đọng lại trong đầu. Không chăm chú nghe cũng như chỉ chép bài sơ sài thì càng không được vì chắc chắn sẽ hổng kiến thức. Hậu quả của cả hai điều này là đến khi đi thi, thí sinh có thể nhớ láng máng nên nhầm lẫn là chuyện khó tránh khỏi.

Trong môn Hoá, học lý thuyết cũng là học bài tập và ngược lại.

Hay đẩy thí sinh vào “sa lầy”: Đối với môn Hoá, rất khó phân biệt được độ khó dễ thực sự của các câu hỏi để thí sinh có thể chọn những bài dễ, hợp “gu” với mình làm trước. Đã thế, môn Hoá cũng rất dễ khiến thí sinh rơi vào sự “sa lầy” loanh quanh không dứt ra được và rất mất thời gian trước khi khi đưa ra được quyết định cuối cùng chọn đúng hoặc sai.

Các bài toán Vô cơ và Hữu cơ thì hay khiến thí sinh bị hiểu lầm. Nếu không đọc đi đọc lại đề bài thì khó hiểu đúng được nội dung yêu cầu của bài ra để viết đúng công thức của các chất và các phương trình phản ứng…

Khổ vì sách tham khảo: Môn Hoá đòi hỏi thí sinh cần cố gắng dành thời gian đọc thêm các tài liệu tham khảo. Để nắm vững kiến thức cơ bản, thí sinh không chỉ học phần lý thuyết trong SGK mà còn nên đọc thêm một số tài liệu tham khảo để tăng cường kiến thức.

Đối với môn Hoá, trung thành với chỉ một cuốn sách giáo khoa thì luôn khó đạt được kết quả thi “hoàn hảo”. Trong khi đó, tài liệu tham khảo môn Hoá thì nhiều vô kể và thực sự thí sinh nếu không có bản lĩnh thì không thể bình tĩnh để chọn được một cuốn sách tham khảo hữu ích cho mình.

Thiệt thòi và thuận lợi khi thi trắc ngiệm môn Hoá

Trắc nghiệm môn Hoá sẽ mang đến cho thí sinh một thiệt thòi lớn. Đó là, nếu như ở phần thi tự luận, thí sinh làm đến đâu được chấm điểm đến đấy. Trong trường hợp vì lý do nào đó, thí sinh không lập đủ phương trình để có thể giải bài toán đi đến đáp số cuối cùng nhưng viết tất cả những phần mình đã làm được ra giấy thi thì theo nguyên tắc chấm thi, thí sinh vẫn được điểm, làm đúng phần nào đều cho điểm phần đó. Nay, với hình thức trăc nghiệm thì chỉ tính điểm trong phần kết quả cuối cùng mà thôi.

Tuy nhiên, thi trắc nghiệm môn Hoá sẽ rất giúp cho những thí sinh nào học giỏi, thông minh nhưng… lơ đễnh nên hay bị thiếu sót trong quá trình làm bài như quên cân bằng phương trình, quên điều kiện phản ứng, quên sản phẩm, quên chất xúc tác… Nhưng kết quả cuối cùng thí sinh vẫn giải đúng để chọn ra được phương án đúng thì cũng chẳng hề gì và vẫn dễ dàng đạt được điểm tối đa!